Sử dụng vàng làm công cụ nhận diện những đồng tiền mạnh nhất

Việc xác định vị thế của các loại tiền tệ so với giá trị của vàng chính là một cuộc kiểm tra minh bạch về sức mạnh của các đồng tiền quốc gia, không tính đến ảnh hưởng từ sự biến động của các loại tiền tệ khác hay nền kinh tế của nước đó.

Đồng USD

Chẳng hạn, việc đồng euro tăng giá so với đôla Mỹ chưa chắc đã phản ánh sự cải thiện các yếu tố cơ bản mà nó có thể là biểu hiện của sự xuống cấp ở các điều kiện cơ bản, các yếu tố kỹ thuật, và/ hoặc niềm tin dành cho đồng USD. Trong khi đó, đồng euro có thể đang xuống giá so với đồng yên Nhật hoặc có một vài biến động so với đồng bảng Anh – một diễn biến hoàn toàn khác so với tỷ giá tính trên đồng đôla.

Việc quy đổi đồng euro ra vàng cho phép ta có cái nhìn khách quan về đồng euro mà không phải chịu sự chi phối của các yếu tố riêng biệt liên quan đến từng loại tiền tệ. Trong khi tiền tệ bị ảnh hưởng mạnh bởi sự biến động lãi suất do việc thay đổi các chính sách kinh tế và sự xáo trộn trong cơ cấu dòng vốn, vàng chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu, và không phải là kết quả cụ thể của bất kì hành động nào của NHTW.

Việc lập biểu đồ so sánh một vài loại tiền tệ với giá vàng sẽ đưa ra một cái nhìn bao quát hơn về các loại tiền tệ đối với một loại tài sản trung lập như vàng, có thể giúp chúng ta có một cái nhìn khách quan hơn về đồng tiền đang nằm trong diện được cân nhắc. Hình 1a chỉ ra mức tăng giá trị của vàng so với các đồng tiền: aussie (đôla Úc), loonie (đôla Canada), euro, và kiwi (đôla New Zealand) từ tháng Giêng năm 2001 đến tháng Năm năm 2008. Tất cả biểu đồ đều thể hiện xu hướng đi lên, qua đó phản ánh sự tăng lên về giá trị của vàng so với các loại tiền tệ khác kể từ năm 2001.

Tiền tệ của Canada

Trong giai đoạn 8 năm, đồ thị biểu hiện sự tăng giá khiêm tốn nhất của vàng là đồ thị thể hiện mối tương quan giữa giá vàng với đồng loonie, điều đó có nghĩa giá vàng ít tăng nhất đối với tiền tệ của Canada. Tuy nhiên, vào cuối giai đoạn này, vàng tăng 90,5% so với aussie trong khi tăng 123% so với loonie, có nghĩa giá vàng tăng ít nhất so với đôla Úc. Điều này ám chỉ rằng Aussie là đồng tiền có thành tích tốt nhất trong nhóm các loại tiền tệ được đề cập ở trên. Sức bật yếu ớt của vàng so với đôla Úc, đôla Canada và đôla New Zealand cho thấy khả năng hồi phục toàn diện của các loại tiền tệ này là do mối liên hệ mật thiết của chúng với sự tăng giá hàng hóa cũng như mức lãi suất cao được quy định trong giai đoạn này.

Hình 1: So sánh vàng với các loại tiền tệ khác nhau để có được đánh giá chính xác hơn về diễn biến dài hạn của các đồng tiền này và đưa ra những quyết định đúng đắn hơn về việc lựa chọn đồng tiền mạnh nhất và yếu nhất.

Tương tự, Hình 1b so sánh vàng với đôla Mỹ (USD), franc Thụy Sỹ (CHF), yên Nhật (JPY) và bảng Anh (GBP) cũng trong khoảng thời gian đó. Hãy lưu ý rằng vị thế của vàng trước các đồng tiền này cao hơn nhiều so với vị thế của vàng trước các đồng tiền được so sánh trong Hình 1a, điều đó chứng tỏ rằng nhóm các loại tiền tệ này không mạnh bằng nhóm AUD, CAD, EUR và NZD. Theo đó, cùng với việc vàng thể hiện mức tăng nhiều nhất so với đôla Mỹ và tăng ít nhất so với đôla Canada, chúng ta có thể kết luận rằng giao dịch cặp tiền tệ AUD/USD sẽ mang lại tỷ suất sinh lợi cao nhất nếu được thực hiện vào giữa tháng Giêng năm 2001 và tháng Năm năm 2008.

Thực vậy, cơ hội trên thị trường ngoại hối không chỉ dành riêng cho những giao dịch giữa các cặp tiền tệ được yết với đôla Mỹ, mà còn mở ra cho cả các cặp tiền tệ không liên quan đến đôla Mỹ. Bằng cách vẽ đồ thị biến động của vàng so với các loại tiền tệ khác nhau trong 3 hoặc 6 tháng, ta có thể đưa ra một đánh giá chân thật hơn về từng đồng tiền cụ thể thay vì so sánh chúng với đôla hay euro. Bằng cách này, các nhà giao dịch không chỉ xác định được diễn biến dài hạn của các đồng tiền mà còn có thể xếp hạng chúng theo thứ tự giá trị đồng thời có thể đưa ra quyết định chính xác hơn trong việc lựa chọn mua đồng tiền mạnh nhất bằng đồng tiền yếu nhất.

Hình 2: Vàng có vị thế yếu nhất so với đồng AUD và JPY từ tháng Giêng năm 2007 tới tháng Năm năm 2008, điều này cũng thể hiện sức mạnh của cả hai đồng tiền này so với đồng GBP và USD

Hình 2 thể hiện những diễn biến gần đây của giá vàng so với AUD, GBP, JPY và USD, đánh giá các đồng tiền trong khoảng giữa tháng Giêng năm 2007 và tháng Năm năm 2008. Đồng đôla Úc lên giá mạnh nhất so với vàng, tiếp theo là yên Nhật, đây là dấu hiệu khả quan hơn rất nhiều so với diễn biến trong hình 1a.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự tăng giá của đồng yên là do sự thoái trào của chiến thuật đầu tư “carry trade” (nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch lãi suất: một hình thức vay hoặc mua các công cụ tài chính có lãi suất cao hơn) khiến cho giới giao dịch quay lưng lại với các đồng tiền có khả năng sinh lợi cao và chuyển sang những đồng tiền có lãi suất thấp hơn như đồng yên để đảm bảo an toàn.

Bạn thấy bài viết này như thế nào?: 
No votes yet