- Posted by: Tommy Tran
- Sat, 11/03/2023, 20:45 (GMT+7)
- Bài viết Quảng cáo
- 6 Bình luận
CEO SVB đã bán 3,6 triệu USD cổ phiếu trước khi doanh nghiệp phá sản
Trước khi Ngân hàng SVB chính thức sụp đổ, CEO của doanh nghiệp này đã bán 3,6 triệu USD cổ phiếu.
Cổ phiếu của SVB đã giảm 62% trước khi bị tạm dừng giao dịch vào ngày 10/3.
Theo Bloomberg, ông Greg Becker, CEO của Ngân hàng SVB, đã bán 3,6 triệu USD cổ phiếu trước khi doanh nghiệp tiết lộ những khoản lỗ lớn dẫn đến phá sản.
Ông Becker đã bán 12.451 cổ phiếu vào ngày 27/2. Đây là lần đầu tiên sau hơn một năm, ông bán cổ phần của Công ty mẹ SVB Financial Group. Thực tế, ông đã đệ trình kế hoạch này từ ngày 26/1.
Vào ngày 10/8, Ngân hàng SVB đã chính thức dừng hoạt động sau một tuần đầy khó khăn. Trước đó, đơn vị này đã gửi thông báo tới các cổ đông rằng họ sẽ cố gắng huy động hơn 2 tỷ USD từ cổ phiếu sau khi thua lỗ. Tin tức này đã khiến cổ phiếu của công ty lao dốc, ngay cả khi ông Becker kêu gọi khách hàng giữ bình tĩnh.
Các hoạt động giao dịch của SVB cũng như những lần bán cổ phiếu của ông Greg Becker đều là hợp pháp. Đây là kế hoạch được Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái Mỹ (SEC) thiết lập vào năm 2000 để ngăn chặn hành vi giao dịch nội gián.
Tuy nhiên, một số người cho rằng kế hoạch bán cổ phần đã được sắp đặt trước với tên gọi là 10b5-1. Không chỉ vậy, một số sơ hở đã được ghi nhận trong kế hoạch này.
“Mặc dù vào ngày 26/1, Becker có thể không lường trước được việc ngân hàng sẽ sụp đổ vào 2 tuần sau đó. Tuy nhiên, việc huy động thêm vốn là kế hoạch quan trọng. Nếu họ thảo luận về việc đó vào đúng thời điểm kế hoạch bán cổ phiếu được thông qua, đó sẽ là vấn đề đáng được lưu tâm”, ông Dan Taylor, giáo sư tại ĐH Pennsylvania, cho biết.
Tháng 12 năm ngoái, SEC đã hoàn thiện các quy định mới. Trong đó, cơ quan này yêu cầu thời gian chờ xét duyệt tối thiểu là 90 ngày đối với các kế hoạch giao dịch cấp điều hành. Điều này đồng nghĩa với việc các lãnh đạo doanh nghiệp không được thực hiện giao dịch mới trong vòng 3 tháng sau lần giao dịch gần nhất.
'Đế chế' ngân hàng 40 năm của Silicon Valley quan trọng như thế nàoThúy Liên Thứ bảy, 11/3/2023 15:18 (GMT+7)Silicon Valley Bank là một trong những ngân hàng hàng đầu tại thung lũng Silicon. Đây là ngân hàng lớn nhất phải đóng cửa kể từ sau khủng hoảng tài chính 2008.
Sự sụp đổ của SVB đã gây sự hoảng loạn ở các công ty đầu tư mạo hiểm
Xếp hạng là ngân hàng lớn thứ 16 tại Mỹ, Silicon Valley Bank (SVB) được xem như một tên tuổi lớn trong ngành, có vị trí không thể thay thế đối với các công ty khởi nghiệp và đầu tư mạo hiểm.
Với bề dày 40 năm hoạt động, ngân hàng này đã bành trướng và trở thành tổ chức tài chính trọng yếu của giới khởi nghiệp, hợp tác với hơn một nửa các công ty có vốn đầu tư mạo hiểm ở Mỹ cùng với hàng loạt doanh nghiệp lĩnh vực công nghệ, chăm sóc sức khỏe.
Dịch vụ của SVB trải dài từ tiền gửi, cấp vốn cho các doanh nghiệp công nghệ, đầu tư mạo hiểm, cho vay và đến cả quản lý rủi ro tiền tệ. “Có rất nhiều cách để gọi tên chúng tôi. ‘Ngân hàng’ chỉ là một trong số đó”, SVB viết trên trang chủ.
Do đó, sự sụp đổ chớp nhoáng của ngân hàng Silicon Valley không chỉ là cú sốc đến giới công nghệ mà còn được xem vụ phá sản ngân hàng lớn nhất nước Mỹ kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Ảnh hưởng sâu rộng đến lĩnh vực tài chính
Một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất của SVB là vận hành như một ngân hàng truyền thống. Ngân hàng Silicon Valley quản lý khoản gửi tiết kiệm, thẻ tín dụng và các tài khoản thị trường tiền tệ với mức lãi suất 4,5%/năm.
SVB còn cung cấp các dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp để thực hiện các giao dịch thanh toán, xuất hóa đơn, quản lý các hợp đồng đăng ký dịch vụ dài hạn và trả nợ định kỳ.
Hàng người đứng trước lối vào ngân hàng Silicon Valley ở thành phố Santa Clara, California.
Nhưng điều khiến cú sụp đổ của SVB ảnh hưởng sâu rộng đến lĩnh vực tài chính là bởi ngân hàng này còn đóng vai trò như một nhà đầu tư. Trong suốt 20 năm qua, quỹ đầu tư mạo hiểm và mảng tín dụng đầu tư của SVB chuyên đầu tư cho về quản lý quỹ và những công ty đình đám như Sequoia Capital, Accel, Kleiner Perkins, Ribbit Capital…
Trong danh mục các khoản ghi nợ đến ngày đáo hạn của SVB năm 2022, có đến hơn 56% khoản nợ là đến từ các công ty đầu tư mạo hiểm và công ty cổ phần tư nhân, Bloomberg cho biết.
SVB còn được biết đến như công ty đi đầu trong hình thức tài trợ nợ mạo hiểm (venture debt). Nợ mạo hiểm thường đến từ các nhà đầu tư giàu có, các ngân hàng đầu tư hoặc bất kỳ định chế tài chính nào khác. Theo Bloomberg, phần lớn các công ty hoạt động dựa trên vốn mạo hiểm hiện nay thường được tài trợ bởi ngân hàng SVB.
Một trong những cách thức cho vay vốn phổ biến nhất của họ là vay thế chấp tài sản, thế chấp cổ phần và vay theo hạn mức tín dụng. Dịch vụ cho vay của SVB không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp công nghệ, tư nhân mà còn liên quan đến các tổ chức phi lợi nhuận như trường bán công, trường tư và những tổ chức phi chính phủ…
Bên cạnh đó, SVB cũng có dịch vụ ngân hàng tư nhân, quản lý tài sản như lên kế hoạch tài chính, nộp thuế, hạn mức tín dụng dựa trên vốn chủ sở hữu nhà, dành cho giới siêu giàu như các giám đốc, lãnh đạo lớn.
“Chủ nợ” của hàng loạt startup
Ngân hàng Silicon Valley còn đầu tư vào nhiều công ty khác trong các lĩnh vực khác nhau, bao gồm công nghệ, y tế, đồng thời cung cấp các dịch vụ như tư vấn mua bán, sáp nhập (M&A advisory), quản lý thị trường vốn và các khoản nợ, thực hiện các nghiên cứu hay giao dịch độc quyền…
SVB được coi là đơn vị cho vay hàng đầu đối với các start-up công nghệ.
Ngân hàng khẳng định đã thực hiện hơn 1.000 giao dịch khác nhau với đa dạng vai trò bao gồm bảo lãnh tài chính, chuyên viên tài chính độc quyền và bên trung gian giúp các doanh nghiệp huy động vốn từ các quỹ đầu tư.
SVB luôn tự hào vì là đơn vị cung cấp mọi dịch vụ mà một startup cần từ khi thành lập, trải qua các vòng gọi vốn đến khi được thu mua hay chào bán chứng khoán lần đầu (IPO).
Một khi đã thuộc về hệ sinh thái của SVB, các startup sẽ được tiếp cận với hàng loạt sự kiện giúp kết nối các nhà đầu tư, nhà sáng lập và những cá nhân khác có liên quan trong lĩnh vực.
Suốt hàng thập kỷ qua, hầu hết sự kiện trong giới startup đều do SVB tài trợ. Điều này giúp ngân hàng ảnh hưởng sâu rộng đến lĩnh vực khởi nghiệp, khiến nhiều nhà sáng lập trẻ dần hình thành suy nghĩ phải hợp tác với họ để phát triển.
Sarika Bajaj, CEO của startup mới Refiberd, cho biết cô chọn ngân hàng Silicon Valley là vì muốn nâng cao độ uy tín của công ty. “Mọi người đều nói rằng bạn phải hợp tác với SVB nếu không bạn sẽ bị loại khỏi tầm mắt họ”, nữ CEO chia sẻ.
Ngân hàng Silicon Valley (SVB), đơn vị cho vay hàng đầu đối với các start-up công nghệ bất ngờ sụp đổ được coi là cú sốc với ngành tài chính.
Chỉ trong vòng vỏn vẹn 48 giờ, ngân hàng Silicon Valley (SVB) đã bị buộc phải dừng hoạt động và trở thành ngân hàng lớn nhất đóng cửa kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008.
Đến sáng 10/3, cổ phiếu SVB bị tạm dừng giao dịch, và ngân hàng đã từ bỏ nỗ lực tăng vốn hoặc tìm người mua. Cổ phiếu một số ngân hàng khác như First Republic, PacWest Bancorp và Signature Bank cũng bị tạm dừng giao dịch.
Ngân hàng Silicon Valley (SVB) đã bị buộc phải dừng hoạt động và trở thành ngân hàng lớn nhất đóng cửa kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008
Sự sụp đổ chớp nhoáng của ngân hàng Silicon Valley được coi là cú sốc với ngành tài chính. Bên cạnh đó, vụ việc đã gây ra làn sóng chấn động khắp lĩnh vực công nghệ nước Mỹ.
"Nguồn sữa" chính của giới công nghệ
SVB là ngân hàng giao dịch công khai có trụ sở tại Santa Clara, California - trái tim của thung lũng Silicon.
Với vị trí đặc biệt này, SVB nhanh chóng trở thành đơn vị cho vay hàng đầu đối với các start-up công nghệ đang phát triển tại đây.
Vox nhận định SVB là cái tên cực kỳ quen thuộc với những người đã từng làm việc trong lĩnh vực công nghệ ở Mỹ, nhưng lại ít được biết đến với những người không hoạt động trong ngành.
SVB là cái tên cực kỳ quen thuộc với những người đã từng làm việc trong lĩnh vực công nghệ ở Mỹ.
Dù sở hữu hàng tỷ USD tiền gửi, SVB chỉ có chưa tới 20 chi nhánh và thường phục vụ cho một nhóm đặc thù gồm các start-up, những nhà đầu tư mạo hiểm và các công ty công nghệ.
SVB tự gọi mình là “đối tác tài chính của nền kinh tế đổi mới”, đồng nghĩa rằng ngân hàng này kết hợp chặt chẽ với cơ sở hạ tầng tài chính của ngành công nghệ, đặc biệt là các start-up.
Điều này rất tuyệt đối với SVB khi ngành công nghệ nước Mỹ phát triển vũ bão. Từ một ngân hàng mới được thành lập, SVB nhanh chóng phát triển thành tổ chức tài chính quan trọng nhất với ngành công nghệ.
Số liệu từ Bloomberg cho thấy ngân hàng này là đơn vị tài chính của các quỹ đầu tư mạo hiểm đứng sau 44% công ty công nghệ và chăm sóc sức khỏe đã lên sàn chứng khoán vào năm 2022.
Tuy nhiên, mọi chuyện lại trở thành thảm họa khi mọi thứ đi chệch hướng. Trong một thời gian dài, mọi thứ vẫn diễn ra rất tốt, khi các nhà đầu tư mạo hiểm liên tục rót tiền cho rất nhiều start-up công nghệ thông qua SVB.
Với số tiền khổng lồ trong tay, SVB lập tức đem đi đầu tư để nắm giữ lượng lớn trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác, trị giá hơn một nửa tài sản của ngân hàng.
Mặc dù vậy, động thái này trở thành nguồn cơn cho sự sụp đổ khi Cục Dự trữ Liên bang (Fed) liên tục tăng lãi suất trong năm 2022. Lãi suất tăng, đồng nghĩa giá trị trái phiếu giảm, buộc ngân hàng này phải thu hồi khoản lỗ.
"Hiệu ứng domino" sau đó xảy ra với tốc độ cực kỳ nhanh, trong bối cảnh lập trường cứng rắn của Fed đã gia tăng lo ngại về suy thoái kinh tế. Chính sự lo ngại này đã khiến định giá của các quỹ đầu tư mạo hiểm và start-up công nghệ tụt dốc không phanh.
Việc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) liên tục tăng lãi suất trong năm 2022 khiến các khoản đầu tư của SVB lỗ nặng, dẫn đến việc sụp đổ vì mất thanh khoản.
Như một lẽ tất yếu, những khách hàng chính của SVB ồ ạt tìm đến ngân hàng này để rút tiền. Thậm chí nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm còn lấy ví dụ sự sụp đổ của Ngân hàng tiền điện tử Silvergate để cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn và gửi email hướng dẫn các start-up rút gửi khỏi SVB.
Sự sụp đổ của ngân hàng Silicon Valley bắt đầu vào ngày 8/3, khi SVB thông báo sẽ bán tháo một loạt chứng khoán và phải huy động vốn 2,25 tỷ USD để củng cố bảng cân đối kế toán.
Đến ngày 10/3, Cơ quan quản lý Mỹ thu giữ tài sản của SVB, chính thức biến đây thành ngân hàng lớn nhất phải đóng cửa kể từ sau khủng hoảng tài chính 2008.
Cơn cuồng loạn của giới công nghệ
Vấn đề cấp bách nhất nhất hiện nay đối với các công ty công nghệ có tiền gửi liên quan đến SVB vẫn chưa được giải quyết: Điều gì sẽ xảy ra nếu các công ty này cần trả tiền cho ai đó, chẳng hạn như nhân viên của mình?
Bảng lương của các công ty công nghệ có tiền gửi liên quan đến SVB sẽ bị ảnh hưởng lớn
Mặc dù Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Mỹ (FDIC) sẽ đảm bảo khoản tiền gửi cho các khách hàng lên tới 250.000 USD tùy thuộc vào quy mô của công ty, số tiền đó này vẫn là không đủ.
Điều này không chỉ áp dụng cho các công ty gửi tiền mặt thông qua SVB, mà còn là câu hỏi đối với những đối đang sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng này như tín dụng quay vòng hoặc thẻ tín dụng.
Ngoài ra, cũng có những lo ngại thực sự về hiệu ứng dây chuyền sau cú sụp đổ này. Ngay cả khi start-up không sử dụng SVB, vẫn có khả năng nhà cung cấp của họ là khách hàng ở đây.
Do đó, việc SVB đóng cửa dẫn đến việc các đối tác này có thể sẽ không thể xoay sở và cung cấp dịch vụ như mong đợi cho công ty.
Ngay cả trong trường hợp lạc quan nhất, khi SVB bằng cách nào đó được mua lại bởi một ngân hàng khác và dòng tiền bắt đầu chảy trở lại, những trục trặc trong thời gian ngắn vẫn gây khó chịu cho nhiều bên liên quan.
Thông báo của FDIC đóng cửa SVB được dán trước cửa ngân hàng.
Ashley Tyrner, CEO của công ty chăm sóc sức khỏe FarmboxRx ở Boston, cho biết cô đã gửi ít nhất 10 triệu USD vào SVB.
Khi thông tin về ngân hàng này sụp đổ, Tyrner điên cuồng gọi cho nhân viên ngân hàng của mình và gọi đó là "18 giờ tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi".
Tyrner cho biết cô đã nhiều lần cố gắng gọi cho dịch vụ khách hàng và nhân viên ngân hàng cá nhân của mình tại SVB. “Cậu ấy chỉ đơn giản là không trả lời điện thoại và sau đó đã gửi một tin nhắn nói rằng mình rất xin lỗi. Họ đang cố khắc phục sự cố để giúp chúng tôi đăng nhập vào tài khoản', Tyrner nói với New York Post.
Bình luận (6)
Khủng hoảng tài chính châu Á
Khủng hoảng tài chính châu Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự sụp đổ của đồng baht Thái, do dòng vốn ồ ạt rời khỏi quốc gia này. Hiệu ứng lan tỏa khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút vốn, tiền tệ các quốc gia khác trong khu vực cũng lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và công ty, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, vỡ nợ. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Khủng hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm trọng. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm phát tăng tốc, các tổ chức tài chính và công ty phá sản, nợ xấu lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp lên cao. GDP của Indonesia giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia cũng giảm xấp xỉ 10% trong khi Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu năm 1998.
IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối năm 1997 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động mạnh nhất bởi khủng hoảng. Đổi lại, các nước thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài chính hoặc giảm can thiệp vào kinh tế thị trường. Đến đầu năm 1999, khu vực này mới dần hồi phục.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II bắt đầu lan rộng. Khủng hoảng bắt đầu từ sự suy thoái của thị trường nhà đất Mỹ, với nguyên nhân được nhắc đến nhiều nhất sau này là "cho vay dưới chuẩn" (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản không đủ đảm bảo trả nợ). Sau đó, rắc rối lan sang thị trường tài chính và cuối cùng là kinh tế toàn cầu.
Cơn địa chấn thực sự nổ ra vào ngày 7/9 với việc hai đại gia cho vay thế chấp của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa. Sau đó, lần lượt Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Washington Mutual là vụ sụp đổ lớn nhất lịch sử ngành ngân hàng Mỹ. Merill Lynch cũng bị Bank of America mua lại. Còn AIG phải nhận hàng chục tỷ USD cứu trợ từ Chính phủ Mỹ.
Để cứu vãn nền tình thế, ngân hàng trung ương các nước đã phải cắt giảm lãi suất, bơm tiền cho các công ty hay mua lại nợ xấu. Tuy nhiên, động thái đó cũng không thể ngăn Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác trên thế giới rơi vào suy thoái trong quý IV năm đó. Theo cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) - Alan Greenspan, đây là cuộc khủng hoảng "hàng trăm năm mới có một lần".
Để cứu vãn nền kinh tế, từ tháng 11/2008, Fed đã phải liên tục tung ra các gói kích thích. Lãi suất cũng được duy trì ở mức kỷ lục gần 0% suốt nhiều năm. Tình hình tại Mỹ sau đó dần ổn định.
Cuối năm 2009, khu vực đồng tiền chung châu Âu (eurozone) tuyên bố EU, trừ Hy Lạp và Tây Ban Nha, đã thoát khỏi suy thoái. Các nền kinh tế khác như Nhật Bản, Singapore, Hong Kong (Trung Quốc), Đức, Pháp cũng dần ra khỏi thời kỳ đen tối nhất.
Khủng hoảng nợ công châu Âu
Sau khi tuyên bố thoát suy thoái từ cuối năm 2009, châu Âu lại gần như ngay lập tức sa lầy vào cuộc khủng hoảng nợ công. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ cơn địa chấn tài chính 2008.
Việc các quốc gia tăng cường tung kích thích bằng các biện pháp tài khóa đã khiến thâm hụt ngân sách và nợ công tăng dần. Khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2009 tại Hy Lạp, sau đó lan ra toàn khu vực đồng euro. Hy Lạp là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất, do ngành công nghiệp chủ chốt của nước này là vận tải biển và du lịch rất nhạy cảm với tình hình kinh tế. Chỉ trong vài năm, lần lượt Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland và Cyprus đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ.
Những diễn biến này đã khiến đồng euro mất giá trầm trọng. Chính sách thắt lưng buộc bụng của các nước trong khu vực, nhằm giảm thâm hụt và nợ công, cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha thường xuyên trên 25%. GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% trong giai đoạn 2008 – 2013.
Lo ngại bởi cuộc suy thoái dài nhất kể từ khi đồng euro lưu hành và tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục, các lãnh đạo EU sau đó đã phải nới lỏng biện pháp thắt lưng buộc bụng. Cuối năm 2013, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) hạ lãi suất để tăng tốc đà hồi phục trong khu vực. Năm 2014, chỉ còn Hy Lạp và Cyprus cần hỗ trợ. Đến 2018, Hy Lạp mới chính thức rời chương trình cứu trợ.
Khủng hoảng đồng peso Mexico
Tháng 12/1994, Mexico bất ngờ phá giá đồng peso. Việc này diễn ra sau 3 năm nước này duy trì giá peso chỉ dao động trong biên độ hẹp so với USD. Chính sách tỷ giá này chịu sức ép trong năm 1994, do thâm hụt tài khoản vãng lai của Mexico tăng, trong khi dự trữ nước ngoài lại giảm tới hai phần ba.
Việc phá giá khiến các thị trường tài chính toàn cầu ngạc nhiên. Để ngăn dòng vốn rời đất nước, Mexico còn nâng lãi suất. Lãi suất ngắn hạn từ 15% lên 32%, khiến lãi suất cho vay tăng theo, đe dọa ổn định kinh tế.
Hai ngày sau, Chính phủ Mexico phải thả nổi đồng peso. Nhưng thay vì ổn định lại, đồng tiền này tiếp tục mất giá. Giá peso giảm nửa chỉ vài tháng sau đó.
Khủng hoảng tại Mexico còn lan ra nhiều nước khác. Một số quốc gia Nam Mỹ ghi nhận nội tệ mất giá mạnh và dự trữ giảm mạnh. Nhiều nền kinh tế mới nổi ở châu Á cũng bị rút vốn.
Cuối cùng, Mexico phải nhận hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và 50 tỷ USD cứu trợ từ Mỹ. Quốc gia này trải qua nhiều năm suy thoái và lạm phát phi mã sau khủng hoảng. Tỷ lệ nghèo đói tại đây cũng duy trì ở mức cao trong suốt thập niên 90.
Vụ sụp đổ trái phiếu rác tại Mỹ
Michael Milken được coi là "Vua trái phiếu rác" tại Mỹ vì đã tạo ra thị trường cho công cụ này, một loại trái phiếu có rủi ro lớn, nhưng trả lợi suất cao. Năm 1969, Milken gia nhập Ngân hàng đầu tư Drexel Burnham Lambert.
Ông nhìn thấy tiềm năng từ lĩnh vực bị bỏ qua, cho rằng các trái phiếu rác có rủi ro vỡ nợ ở mức chấp nhận được, trong khi lại có lợi suất cao. Drexel Burnham Lambert vì thế đã bảo lãnh phát hành loại trái phiếu này, còn Milken thuyết phục các tổ chức rót tiền vào đây.
Đến năm 1988, thị phần bảo lãnh phát hành trái phiếu rác của Drexel lên tới 50%. Drexel cũng có thời điểm là ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 tại Mỹ.
Thị trường trái phiếu rác tăng trưởng chóng mặt suốt gần một thập kỷ, từ quy mô 10 tỷ USD năm 1979 lên gần 190 tỷ USD năm 1989. Công cụ này đã giúp nhiều công ty nhỏ tiếp cận vốn. Nó cũng được coi là cách huy động tài chính phổ biến cho các thương vụ LBO (mua lại công ty khác bằng vốn vay).
Đến cuối thập niên 80, thị trường lao dốc sau hàng loạt đợt nâng lãi của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Nguồn cung bắt đầu vượt quá nhu cầu. Bên cạnh đó, Milken còn bị cáo buộc vi phạm hàng loạt quy định về chứng khoán và công bố thông tin. Ông bị phạt 200 triệu USD và phải ngồi tù 22 tháng. Drexel cũng tuyên bố phá sản năm 1990.
Bài học từ cuộc 'Đại lạm phát' 500 năm trước
Nhìn lại những cuộc lạm phát từ thời vua Henry VIII, khi nước Anh rơi vào hỗn loạn, Economist chỉ ra nhiều bài học cho các chính phủ ngày nay.
Không chỉ Anh, vào những năm 1590, tình thế đó lan rộng khắp châu Âu, với khủng hoảng tài chính, bất ổn xã hội và chiến tranh tàn phá. Căn nguyên là do lạm phát gia tăng một cách bất ngờ.
Ở Anh vào năm 1500, giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn mà người tiêu dùng phải chi (phần lớn là thực phẩm, cùng những thứ khác như quần áo và ánh sáng) không cao hơn so với năm 1275, theo nhà sử học Gregory Clark và các nhà nghiên cứu tại Ngân hàng Anh.
Nhưng sau năm 1500, tất cả đã thay đổi. Lạm phát kéo dài, từng là điều không thể tưởng tượng được, đã không thể ngăn chặn. Trong vòng 50 năm, giá cả trung bình trên khắp nước Anh tăng gấp đôi. Nghiên cứu của Paul Schmelzing thuộc Đại học Boston cho thấy trước đó giá cả ở Italy đã tăng 5% một năm.
Ở Pháp và Hà Lan, lạm phát đạt 4% vào cuối thế kỷ. Ở Nga, xu hướng lạm phát gia tăng từ những năm 1530. Tỷ lệ lạm phát toàn cầu đạt đỉnh vào những năm 1590 ở mức gần 3% một năm. Con số 3% ngày nay rất thấp nhưng vào thời đó, tăng trưởng thu nhập danh nghĩa về cơ bản là bằng không. Do đó, hầu như mọi mức độ lạm phát đều khiến người dân nghèo hơn.
Lạm phát tăng trong thời gian dài, thậm chí còn lâu hơn cả thời kỳ lạm phát phi mã vào đầu thế kỷ 19 do các cuộc chiến tranh của Napoléon, hoặc những năm 1970. Một số quốc gia bị thiệt hại nhiều hơn những nước khác. Ví dụ, lạm phát ở Scotland tệ hơn nhiều so với Anh. Và lạm phát của Hà Lan có thể tệ nhất thế giới.
Cũng giống như lạm phát ngày nay, các học giả vào những năm 1500 đã bất đồng gay gắt về nguyên nhân. Không nơi nào cuộc tranh luận này sôi nổi hơn ở Pháp những năm 1560 và 1570. Một chuyên gia thời đó là Jean Cherruyer de Malestroit cho rằng áp lực giá cả là kết quả của việc chi tiêu quá mức. Quan điểm này nếu so với thời nay thì tương đồng với của Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers.
Trong khi đó, một nhân vật khác tên là Jean Bodin lập luận rằng nguyên nhân từ những cú sốc bất ngờ với hệ thống kinh tế toàn cầu. Ngày nay, ý kiến này giống với nhà kinh tế học người Mỹ Paul Krugman.
Giống như Summers và Krugman ngày nay, cả Malestroit và Bodin đều có lý. Nhu cầu dư thừa chắc chắn đóng một vai trò. Dân số tăng nhanh sau "Cái chết đen" (một đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ XIV) và nhiều người trong số đó đã chuyển đến các thành phố. Điều này làm tăng nhu cầu về lương thực trong lúc nông dân sản xuất giảm. Ngoài ra, một số vị vua đã thúc đẩy nền kinh tế bằng cách thao túng tiền tệ.
Vào những năm 1540, vua Henry VIII phá giá tiền tệ bằng một chính sách có tên "Great Debasemen". Ông cho nấu chảy các đồng tiền vàng, pha trộn với các kim loại kém giá trị hơn để có được nhiều đồng tiền vàng hơn.
Sử dụng phương pháp này, ông đã có thêm một lượng tiền trị giá khoảng 2% GDP trong một số năm. Ông lấy đó chi cho các cuộc chiến tranh và cung điện. Nhưng kết quả là sự gia tăng nhu cầu danh nghĩa đã kích động các thương gia tăng giá.
Không chỉ Henry, những vị vua sau cũng phá giá tiền tệ. Scotland thì bắt đầu phá giá tiền vào năm 1538 và nhân đôi chiến lược này vào năm 1560. Ở vùng đất thấp phía nam mà ngày nay là Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, đồng tiền đã bị hạ giá 12 lần từ năm 1521 đến năm 1644.
Nhưng chỉ riêng động thái phá giá tiền không giải thích được tình trạng lạm phát lớn, dù Malestroit có lập luận thế nào đi nữa. Pháp từng hạ giá tiền của họ 123 lần từ 1285 đến 1490 nhưng không có lạm phát giai đoạn đó.
Tuy nhiên, vào những năm 1500, ngay cả khi nhiều quốc gia giảm tốc độ phá giá tiền, tất cả đều chứng kiến lạm phát. Tây Ban Nha đã ngừng hoàn toàn việc giảm giá tiền từ năm 1497 đến năm 1686. Do đó, một số nhà sử học cho rằng nguyên nhân từ phía nhu cầu là không đủ. Vì vậy, cần xem xét những gì đang xảy ra trên khắp Đại Tây Dương, nguồn gốc gây ra cú sốc nguồn cung với kinh tế châu Âu.
Vào khoảng năm 1545, người ta đã phát hiện ra những mỏ bạc khổng lồ ở Bolivia. Potosí, trung tâm của ngành công nghiệp mới béo bở này, trở thành thành phố lớn thứ 5 trong thế giới Cơ đốc giáo về dân số (sau London, Naples, Paris và Venice).
Thời gian đầu những năm 1500, chỉ có 10 tấn bạc cập bến bờ biển châu Âu và tăng dần lên 173 tấn giai đoạn cuối thế kỷ đó. Tây Ban Nha, nơi phần lớn kim loại được chuyển đến, ban đầu trải qua tình trạng lạm phát đặc biệt cao, nhưng sau đó lạm phát lan rộng khắp phần còn lại của châu Âu, đến tận Nga.
Sự gia tăng lạm phát ngày nay chỉ mới một năm nhưng đã gây ra những hậu quả chính trị và xã hội sâu sắc. Ở vài nơi trên thế giới, niềm tin của người tiêu dùng đang ở mức thấp khi tiền lương thực tế giảm. Các chính trị gia đương nhiệm không được lòng dân. Các cuộc biểu tình về chi phí sinh hoạt đang nổ ra.
Tuy nhiên, tất cả vẫn không đáng kể so với tác động của lạm phát thế kỷ 16. Tiền lương thực tế trung bình vào đầu những năm 1500 ở mức cao nhất khoảng 7 cent một tuần, sau đó giảm liên tục. Sức mua không hồi phục cho đến cuối thế kỷ 19. Hậu quả của việc siết chặt mức sống không chỉ khiến ăn xin tràn lan mà xã hội và chính trị trên khắp châu Âu trở nên bất ổn.
Trong một bài báo xuất bản năm 1986, Jack Goldstone, Nhà xã hội học hiện làm việc tại Đại học George Mason, đã đặt câu hỏi vì sao từ năm 1550 đến năm 1650 "các quốc gia tan vỡ trên diện rộng".
Tại Pháp vào năm 1572, vụ thảm sát Ngày Thánh Bartholomew dẫn đến hàng nghìn người chết. Những năm 1590 là những năm nổi dậy ở Áo, Phần Lan, Hungary và Ukraine. Từ 1598, Nga bước vào "Thời kì Đại loạn" với khoảng 15 năm vô luật pháp.
"Chiến tranh Ba Mươi Năm" bắt đầu vào 1618 và lên đến đỉnh điểm với việc vua Charles I của Anh bị hành quyết vào năm 1649. Vào mỗi năm của khoảng 25 năm đầu thế kỷ 16, cứ 100.000 người trên toàn cầu thì có khoảng 6 người chết trong các cuộc xung đột. Từ những năm 1620 đến những năm 1640, cứ 100.000 người thì có khoảng 60 người chết hàng năm.
Giới tinh hoa cũng chịu thiệt. Tầng lớp quý tộc thường phụ thuộc vào các khoản thu cố định (chẳng hạn như cho thuê nhà). Ở miền bắc nước Pháp và Bỉ, bất bình đẳng đã giảm vào những năm 1560 và 1570 khi những người có thu nhập trung bình làm ăn tốt trong khi các địa chủ giàu có thu nhập giảm. Các nhà tài phiệt vốn không quen với xung đột kinh tế nên kích động sự thay đổi.
Quan trọng hơn là các chính phủ cũng gặp khó. Nhiều thế kỷ lạm phát bằng 0 hoặc thấp đã ảnh hưởng đến cách họ cấu trúc tài chính nhà nước. Các vị vua thường cho thuê những mảnh đất với giá thuê cố định trong thời gian 99 năm. Thuế hải quan được giữ ở mức giá danh nghĩa. Đây là một vấn đề một khi lạm phát cất cánh.
Từ giữa những năm 1570 đến giữa những năm 1590, nguồn thu thuế của Tây Ban Nha không đổi về tiền mặt, nhưng có sức mua kém hơn. Và chi phí của chính phủ, vốn không cố định, đã tăng vọt. Vào thế kỷ sau năm 1530, đưa một người lính ra chiến trường tốn kém gấp 5 lần trước đó.
Do đó theo thời gian, lạm phát góp phần khiến các quốc gia yếu hơn và khủng hoảng nợ. Các chính phủ ra sức làm những gì có thể để tăng thu. Vào năm 1544 và 1545, Henry VIII bán bớt tài sản của nhà nước, chẳng hạn các lô đất, trị giá hơn 150.000 bảng Anh (hoặc hơn 2% GDP). Đầu những năm 1600, những vụ mua bán nhỏ hơn dưới thời Elizabeth I vẫn diễn ra.
Ông Goldstone chỉ ra rằng số người được phong tước hiệp sĩ "với số lượng chưa từng có" cũng mang đến những khoản tốn kém lớn. Ngoài ra, hoạt động cho vay bùng nổ vào đúng thời điểm nhiều người cho vay bắt đầu tăng lãi suất. Theo đó, lãi suất hiếm khi tăng vào những năm 1300 và 1400, đã tăng lên gấp bội với Pháp (năm 1558, 1624 và 1648), Bồ Đào Nha (năm 1560) và Tây Ban Nha (năm 1557, 1575, 1596, 1607, 1627 và 1647).
Cuối cùng, đại lạm phát cũng kết thúc nhờ nhiều yếu tố. Theo đó, tăng trưởng dân số chậm lại, làm giảm nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ. Các quân chủ nắm quyền kiểm soát chính sách tài chính và tiền tệ cam kết sẽ ít để vỡ nợ và phá giá tiền tệ hơn. Dòng kim loại quý từ châu Mỹ cũng dần chậm lại. Tuy nhiên, những bài học từ 500 năm trước là rõ ràng. Bất kể nguyên nhân là gì, các xã hội để xảy ra lạm phát thì sẽ dẫn đến mức sống suy giảm.
Add Comment