- Posted by: Khanh Hoang
- Fri, 26/10/2012, 14:46 (GMT+7)
- Ngành giáo dục
- 0 Bình luận
Đề xuất các tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động giáo dục nghề phổ thông
Bùi Đức Tú*
Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp Phan Rang
20 Trần Phú, Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận, Việt Nam
Nhận ngày 17 tháng 1 năm 2008
Tóm tắt. Bài báo đề xuất các tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động giáo dục nghề cho học sinh phổ thông. Trong đó, vừa đưa ra các tiêu chí đánh giá hoạt động giáo dục nghề phổ thông, vừa nêu lên các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học nghề phổ thông của học sinh, và đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên dạy.
1. Đặt vấn đề*
Lênin viết: “Giáo dục nghề nghiệp không được mang dấu ấn của nền sản xuất thủ công mà phải có quan hệ với những tri thức phổ thông và kỹ thuật tổng hợp, phải dựa trên sự thống nhất giữa học tập và lao động sản xuất”. Hoạt động giáo dục nghề phổ thông (GD NPT) được hiểu là hoạt động giáo dục nghề nghiệp nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật ban đầu cho đối tượng học
sinh phổ thông, góp phần khắc phục tính trừu tượng của các kiến thức, nguyên lý kỹ thuật; giúp học sinh thấy được những đòi hỏi của nghề đối với người lao động về phẩm chất và năng lực, từ đó có sự lựa chọn nghề và định hướng học tập phù hợp nhất. Vì vậy, GD NPT chính là một con đường đặc biệt quan trọng để hướng nghiệp cho học sinh (HS) và góp phần đặt nền tảng cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước [1].
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của hoạt động này, Bộ GD-ĐT chủ trương tăng cường hoạt động GD NPT, củng cố và tăng cường hệ thống trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, cộng điểm khuyến khích cho học sinh có chứng chỉ NPT…, đặc biệt kể từ năm học 2007-2008, GD NPT được coi là một môn học chính thức trong chương trình lớp 11. Tuy vậy, trên thực tế hoạt động GD NPT hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập so với yêu cầu đặt ra từ chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập WTO. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như nhận thức của xã hội về GD NPT còn bất cập, trang thiết bị quá thiếu thốn…, trong đó phải kể đến công tác kiểm định, đánh giá chất lượng còn nhiều yếu kém và chưa được quan tâm đúng mức, chưa xây dựng được bộ thang đo phù hợp với đặc thù của hoạt động GDNPT và phù hợp với phương pháp dạy học mới.
Vấn đề đặt ra là: Cần phải kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh học NPT như thế nào để phù hợp nhất với đặc thù GD NPT? Thước đo nào để đánh giá chất lượng hoạt động GD NPT? Và đánh giá năng lực giáo viên dạy NPT như thế nào?
2. Tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động
GD NPT của một trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp Việc xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động GD NPT dựa trên khái niệm về chất lượng trong Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 1999: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính… Về căn bản, chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng”.
Theo Pedhazur và Schmelkin (1991) thì tiêu chí là cơ sở để dựa vào đó mà đánh giá chất lượng. Tiêu chí có thể là bất cứ đại lượng nào dùng để giải thích hoặc dự đoán bằng cách lấy thông tin từ đại lượng khác. Để đánh giá chất lượng hoạt động GD NPT cần phải đánh giá các tiêu chí đầu vào, các tiêu chí thuộc quá trình đào tạo và các tiêu chí đầu ra. Về chất lượng đào tạo nghề nói chung, các
nhà kinh tế giáo dục đã bổ sung và hoàn chỉnh bảng 1 sau đây do Kirpatrick [2] đề xuất:
Với đặc thù của hoạt động GD NPT, chúng tôi cho rằng, nâng cao chất lượng GD NPT ở một trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp (KTTH-HN) được biểu hiện bởi các tiêu chí phát triển về “chất” và tăng trưởng về “lượng”. Trong đó, phát triển về “chất” nghĩa là nâng cao tỷ lệ đậu tốt nghiệp NPT, nâng cao tỷ lệ đạt loại giỏi, loại khá trong kỳ thi tốt nghiệp NPT, thi học sinh giỏi NPT..., đặc biệt, ngày càng góp phần tích cực hơn trong công tác hướng nghiệp nói chung để giảm tỷ lệ HS yếu kém thi vào đại học, tăng tỷ lệ học sinh thi vào các trường trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề hoặc trực tiếp đi vào cuộc sống lao động sản xuất phù hợp với năng lực, sở trường, hứng thú của bản thân, phù hợp với đặc điểm gia đình, địa phương và yêu cầu của toàn xã hội... Tăng
trưởng về “lượng” được hiểu là nâng cao tỷ lệ HS đến học NPT, giảm thiểu HS bỏ học giữa chừng. Vì vậy, đối với chất lượng hoạt động GD NPT chủ yếu chỉ ñánh giá theo 4 cấp độ thể hiện qua bảng 2 sau đây:
3. Kiểm tra, đánh giá học sinh học NPT
Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh học NPT trong thời gian qua chủ yếu để đảm bảo đủ số điểm theo qui định và xem khả năng học thuộc bài, kĩ năng thực hành của học sinh, chưa chú ý phân tích, xử lý kết quả kiểm tra đánh giá để điều chỉnh nội dung phương pháp dạy học. Về phương pháp: Chủ yếu là tự luận và quan sát. Vì vậy nội dung kiểm tra không thể bao quát được phần lớn
chương trình mà chỉ tập trung vào kiểm tra đánh giá một số nội dung chủ yếu. Chưa phối hợp giữa đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh và giữa đánh giá với nhận xét. Để khắc phục những hạn chế trên, cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp kiểm tra sau đây trong quá trình GD NPT.
3.1. Kiểm tra vấn đáp
Kiểm tra vấn đáp là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua tương tác hỏi - đáp giữa thầy và trò, trong đó thầy là người đặt câu hỏi, trò độc lập trả lời.
3.2. Kiểm tra viết
Kiểm tra đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu về kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức đã học của HS thông qua việc yêu cầu HS giải thích, chứng minh cơ sở khoa học, nguyên lý kỹ thuật của những biện pháp kỹ thuật, qui trình công nghệ được ứng dụng khi sản xuất sản phẩm. Kiểm tra viết bao gồm phương pháp tự luận và phương pháp trắc nghiệm khách quan (chủ yếu là trắc nghiệm
nhiều lựa chọn)
3.3. Kiểm tra bằng quan sát thực tế
3.3.1. Cơ sở đề xuất tiêu chí để đánh giá tay nghề học sinh học NPT Để đánh giá năng lực nghề của học sinh học NPT, không chỉ dựa vào điểm bài kiểm tra viết hay vấn đáp, mà còn phải đánh giá
dựa vào quan sát quá trình thực hành và sản phẩm thực hành. Trình độ tay nghề (chứng chỉ nghề I và chứng chỉ nghề II) của học sinh học NPT ở Việt Nam thể hiện khá rõ nét trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở Australia (bảng 3) [3].
Về mức độ hiểu biết và mức độ kỹ năng, của HS học NPT cũng được thể hiện hình 1. Theo đó, với tay nghề ở mức bán lành nghề (Semi Skilled), người học sinh học NPT mới hiểu, thừa nhận và nhắc lại về kiến thức nghề, và biết bắt chước theo người dạy và vận dụng vào tình huống bài tập [4].
3.3.2. Tiêu chí đánh giá tay nghề học sinh học NPT Từ các cơ sở trên, chúng tôi đề xuất thang đo để đánh giá kết quả thực hành NPT của học sinh theo bảng 4 sau đây:
4. Tiêu chí đánh giá năng lực sư phạm kỹ thuật của giáo viên dạy NPT
4.1. Cơ sở xây dựng
Đối với giáo viên dạy NPT do trình độ đào tạo, nguồn đào tạo chênh lệch nhau, bởi lẽ các nghề khác nhau có đặc thù riêng không giống các môn văn hóa phổ thông, thậm chí một giáo viên có thể dạy trên dưới 2 nghề nên việc đánh giá năng lực giảng dạy theo chuẩn chung của giáo viên THPT là không phù hợp. Đánh giá giáo viên dạy NPT cần phải đặt trong môi trường hoạt động nghề nghiệp của
giáo viên theo quan điểm didactique (Cộng hòa Pháp) [5], với hình 2:
Người giáo viên nói chung cần có các tố chất sau đây: Nắm vững kiến thức thuộc bộ môn mình dạy; Hiểu được những nguyên tắc cơ bản về sự trưởng thành và phát triển của trẻ em; Có kiến thức chung tốt; Có phương pháp và kỹ thuật dạy học hiệu quả; Có thái độ tích cực đối với nghề nghiệp; Sẵn sàng chấp nhận sự điều chỉnh để bài giảng của mình phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực
tế; Dũng cảm đấu tranh để đạt tới chuẩn mực [5].
4.2. Chuẩn năng lực giáo viên dạy NPT
trong đó, N: Chuẩn năng
lực giáo viên dạy NPT; L: Chuẩn năng lực
dạy lý thuyết NPT; T: Chuẩn năng lực dạy
thực hành NPT
với N ≥ 9 : Năng lực tốt
7 ≤ N < 9 : Năng lực khá
5 ≤ N< 7: Năng lực trung bình
N < 5 : Năng lực yếu
5. Kết luận
Giáo dục NPT có đặc thù là yêu cầu tay nghề của HS ở mức thấp (đào tạo nghề ban đầu); luôn luôn phải lồng ghép hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giáo dục ý thức, tác phong công nghiệp; giáo viên dạy NPT có thể đảm nhiệm 2 nghề gần chuyên môn… Việc xây dựng các tiêu chí, các thang đo trên đây vừa phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực đánh giá chất lượng đào tạo trong giáo
dục nghề nghiệp, vừa phù hợp với đặc thù của hoạt động giáo dục NPT có ý nghĩa lớn đối với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động này, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động hướng nghiệp, làm nền tảng cho việc thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá, là một trong những điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp đi đôi với đổi mới hoạt động GD NPT. Đánh giá đúng còn có tác dụng thúc đẩy động cơ học tập của người học, khuyến khích người học tăng cường tham gia vào các hoạt động học tập để
hình thành những năng lực cần thiết theo mục tiêu đã định; thúc đẩy động cơ phấn đấu vươn lên của người dạy, tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh, giúp cho phong trào thi đua dạy tốt, học tốt đi vào thực chất.
Bình luận (0)
Add Comment